Những thiệt hại, tổn thất lớn nhất thường tìm đến NĐT khi họ tự tin một cách thái quá về khả năng chiến thắng của mình. Đừng bao giờ ngủ quên trên chiến thắng, luôn luôn kiềm chế, tuân thủ kỷ luật vào những thời điểm hưng phấn nhất là bí quyết bảo toàn thành quả.
Sự quá tự tin có thể được hiểu như một niềm tin thiếu cơ sở về khả năng nhận thức, đánh giá và lý luận mang tính trực giác của một người. Những NĐT mắc khuynh hướng này đánh giá quá cao cả khả năng dự đoán và độ chính xác của những thông tin mà họ đang sở hữu. Người ta thường ước lượng kém xác suất đo lường - những sự kiện họ nghĩ chắc chắn xảy ra thường cách rất xa xác suất 100% chắc chắn xảy ra. Trong ngắn hạn, NĐT thường nghĩ rằng họ thông minh hơn và có những thông tin tốt hơn mức mà họ thực sự sở hữu. Ví dụ, họ có thể nhận được 1 nhận định nào đó từ nhà môi giới hoặc đọc vài thông tin trên internet, sau đó, ngay lập tức họ hành động, đưa ra một quyết định đầu tư dựa trên những hiểu biết trước đó.
Cụ thể, có 2 loại quá tự tin là: quá tự tin về dự báo và quá tự tin về tính chắc chắn.
Quá tự tin về khả năng dự báo: khi định giá giá trị của 1 cổ phiếu, một NĐT quá tự tin sẽ đưa ra một phạm vi quá hẹp đối với độ dao động của cổ phiếu, chẳng hạn dự đoán 1 cổ phiếu chỉ dao động trong tầm 10% thua lỗ tối đa, trong khi lịch sử cho thấy những biến động lớn hơn nhiều. Hàm ý của điều này là những NĐT đã đánh giá quá thấp khía cạnh rủi ro của danh mục đầu tư.
Quá tự tin về tính chắc chắn: những NĐT thường quá chắc chắn về những nhận định của họ. Ví dụ, khi cho rằng một công ty là một khoản đầu tư tốt, người ta thường bị che mờ trước những khả năng thua lỗ và sau đó cảm thấy ngạc nhiên hoặc thất vọng khi khoản đầu tư cho hiệu quả kém. Hành vi này đưa nhà đầu tư rơi vào một khuynh hướng sai lầm là cố gắng tìm kiếm “cổ phiếu nóng tiếp theo”. Do đó, những NĐT có khuynh hướng mắc phải sự quá tự tin về tính chắc chắn thường giao dịch quá nhiều, liên tục đưa ra các “quyết định trong phiên” và có thể nắm giữ một danh mục không được đa dạng hóa đủ tốt.
Khuynh hướng sai lầm do quá tự tin về dự đoán cũng như quá tự tin về tính chắc chắn đều đưa NĐT đến các loại sai lầm đầu tư như bên dưới:
1. Những NĐT quá tự tin đánh giá quá cao khả năng của họ khi đánh giá một công ty như một khoản đầu tư tiềm năng. Kết quả là, họ có thể bị che mờ trước bất cứ thông tin tiêu cực mà thông thường có thể chỉ ra một dấu hiệu cảnh báo rằng hoặc là không nên mua cổ phiếu đó hoặc là nên bán cổ phiếu mà họ đã mua.
Ví dụ: một NĐT đưa ra nhận định rất lạc quan về cổ phiếu HPG, sau đó, DN công bố thông tin phát hành thêm. NĐT sẽ chậm thay đổi quyết định của mình do hầu như bị che mờ bởi khía cạnh rủi ro mà thông tin này có thể tác động tiêu cực lên giá cổ phiếu.
Lời khuyên: Đối với những NĐT có khuynh hướng liên tục tìm kiếm các cổ phiếu nóng, nhà tư vấn nên yêu cầu họ xem xét lại lịch sử giao dịch của mình trong 2 năm gần nhất và tính toán hiệu quả của nó. Thông thường thì, kết quả giao dịch sẽ cho ra những hiệu quả thấp kém.
2. Những NĐT quá tự tin có thể giao dịch một cách quá mức như một hệ quả của niềm tin rằng họ sở hữu những kiến thức đặc biệt mà những người khác không có. Hành vi giao dịch quá mức thường dẫn đến những kết quả giảm sút theo thời gian.
Ví dụ: NĐT mắc phải sai lầm này thường liên tục tìm kiếm các cổ phiếu tiềm năng mới và đưa ra các “quyết định trong phiên”. Tức là sau khi chốt lời hoặc thậm chí là cắt lỗ mã cổ phiếu nào đó, NĐT nhanh chóng đưa ra quyết định mua một cổ phiếu khác một cách thiêu suy xét. Tần suất các quyết định đầu tư càng dày rõ ràng chất lượng các quyết định đó càng giảm sút do ít mức độ đầu tư thời gian để tìm hiểu, ngâm cứu. Hơn nữa, các “quyết định trong phiên” thường bị chi phối bởi các biến động thị trường, do đó nó thường là hệ quả của sự bốc đồng về tâm lý hơn là các quyết định đầu tư có lý trí; các công cụ PTKT lại càng tiếp tay nhanh cho các quyết định kiểu này. Rõ ràng, trading với tần xuất càng nhiều hiệu quả đầu tư sẽ càng giảm, không những gây phát sinh chi phí giao dịch mà hiệu quả của quyết định đầu tư bị giảm sút do thiếu mức độ tìm hiểu, phân tích. Nhưng thông thường, các NĐT ít chịu nhìn nhận lại điểm này, như thế họ là một thiên tài có thể nhanh chóng tìm các cổ phiếu tiềm năng chỉ sau vài cú click chuột.
Lời khuyên: Khi 1 NĐT đang cho thấy dấu hiệu giao dịch quá nhiều, cách tốt nhất là yêu cầu họ giữ lại lịch sử từng giao dịch cụ thể và tính toán hiệu quả của các giao dịch đó. Điều này sẽ chứng minh được mức độ tác hại của việc giao dịch quá mức. Bởi vì sự quá tự tin là một loại sai lầm mang tính nhận thức nên những thông tin cập nhật sẽ giúp họ hiểu những sai lầm mà họ đang mắc phải.
3. Bởi vì họ không biết, hoặc không hiểu, hoặc không lật lại các thống kê về hiệu quả đầu tư quá khứ, những NĐT quá tự tin có thể đánh giá quá thấp khía cạnh rủi ro. Kết quả là, họ có thể thất vọng khi chứng kiến hiệu quả danh mục nghèo nàn.
Ví dụ: trong đầu tư hoặc khuyến nghị đầu tư, các NĐT thường tưởng tượng về các thành quả lợi nhuận “bất thường” hơn là tập trung đánh giá đầy đủ các khía cạnh rủi ro khi đầu tư vào 1 cổ phiếu. Do đó, khi các biến động bất lợi cổ phiểu xảy ra, NĐT thường hay bị động và phản ứng chậm trong các quyết định quan trọng như nên nắm giữ hay cắt lỗ, để rồi rơi vào trạng thái kẹp hàng thụ động, "tự phong" cho mình là NĐT dài hạn trong khi ban đầu mục đích của họ là đầu cơ ngắn hạn.
Lời khuyên: nhà tư vấn nên yêu cầu NĐT đánh giá vấn đề ở cả 2 mặt: lợi nhuận và rủi ro. Thứ nhất, review lại giao dịch hoặc những cổ phiếu đang nắm giữ có thể là một cổ phiếu có tiềm năng lợi nhuận kém, sử dụng bằng chứng này để phát họa ra sự nguy hại của sự quá tự tin. Thứ hai, chỉ ra những nghiên cứu và thực nghiệm thị trường để chứng minh thị trường thường biến động mạnh hơn dự kiến.
4. Những NĐT quá tự tin nắm giữ những danh mục cô đặc, bằng cách chấp nhận rủi ro nhiều hơn mà không có một sự thay đổi trong mức chấp nhận rủi ro. Thường thì những NĐT quá tự tin thậm chí không nhận thức được rằng họ đang chấp nhận rủi ro nhiều hơn mức rủi ro thông thường mà họ có thể chấp nhận.
Những NĐT quá tự tin đánh giá quá cao nhận định của bản thân họ về một cổ phiếu nào đó hơn là nhận định của người khác. Sự tự tin không cân đối trong đánh giá cá nhân của 1 người dẫn đến sự khác biệt trong ý kiến, là cái tác động lên giao dịch. Những NĐT lý trí chỉ giao dịch và mua thông tin khi nó làm tăng lợi nhuận của họ. Những NĐT quá tự tin giảm lợi nhuận của họ bằng cách giao dịch quá nhiều; họ có 1 niềm tin không thực tế về mức lợi nhuận cao chót vót và tính chắc chắn của những khoản lợi nhuận mà họ nghĩ là có thể đạt được, và chi tiêu quá nhiều nguồn lực bao gồm đầu tư vào thông tin. Thậm chí họ có thể đẩy mạnh giao dịch khi sự thực rằng họ đang thua lỗ.
Mô hình về sự quá tự tin của NĐT cho thấy rằng do đàn ông là tự tin hơn phụ nữ, nên họ sẽ giao dịch nhiều hơn và kết quả là hiệu quả kém hơn phụ nữ. Trong nghiên cứu của Barber và Odean chỉ ra rằng hiệu quả danh mục sẽ tốt hơn mức trung bình nếu cả đàn ông và phụ nữ nắm giữ 1 danh mục không đổi từ đầu năm đến cuối năm.
Nhìn chung, những cổ phiếu mà những NĐT cá nhân đã bán lại có tỷ suất sinh lời lớn hơn tỷ suất sinh lời của những cổ phiếu mà họ mua mới. Cổ phiếu mà đàn ông đã mua có tỷ suất sinh lời thấp hơn 20% so với cổ phiếu mà họ đã bán, đối với phụ nữ là 17%.
Tóm lại, sự quá tự tin là một nhân tố gây nguy hại đến tài sản của bạn.
Thực tế chứng minh rằng các quỹ và các NĐT cá nhân có tần suất giao dịch cao nhất lại kiếm được lợi nhuận thấp nhất trên thị trường.
P/S: khuynh hướng quá tự tin là sai lầm mà bất cứ NĐT trên TT nào cũng khó tránh khỏi. Do đó, trong quá trình đầu tư, luôn luôn thực hiện các bài test bên trên, nhìn lại hiệu quả và lịch sử giao dịch để sớm nhận diện ra các sai lầm như vậy nhằm hạn chế những rủi ro tiềm tàng do đặc tính sai lầm do quá tự tin gây ra.
VIET EURO
Biên soạn từ “Behavioral Finance and Wealth Management”. Micheal M.Pompian.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét