![Kết quả hình ảnh cho loss aversion](https://alessandroinnocenti.files.wordpress.com/2015/04/lossaversion.jpg?w=753&h=428&crop=1)
Bài viết này đề có cập đến loại khuynh hướng hành vi
mà NĐT trên thị trường khó tránh khỏi khi phải đứng trước các tình huống nắm giữ
danh mục hoặc cổ phiếu đang thua lỗ. Tâm lý không dám cắt lỗ (sợ hiện thực hóa
khoản lỗ) khiến NĐT đưa ra các quyết định phi lý trí, gây hại và đi ngược hoàn
toàn với mong muốn và lơi ích của NĐT là tối đa hóa hiệu quả danh mục.
Ví dụ,
do không dám cắt lỗ, NĐT vô tình nắm giữ các cổ phiếu mà DN của nó gặp vấn đề
trầm trọng về mặt cơ bản (hoạt động kinh doanh/tài chính), những cổ phiếu này
hoặc mất thời gian quá lâu để phục hồi, thậm chí không ít trường hợp hủy niêm yết,
thâm chí là phá sản. Hoặc trường hợp khác, khi NĐT đứng trước quyết định phải
bán bớt cổ phiếu trong bối cảnh lo ngại rủi ro thị trường hoặc để giữ tỷ lệ đảm bảo margin theo quy định lại ưu tiên bán các cổ phiếu đang tăng giá (thường là cổ
phiếu tốt) và giữ lại các cổ phiếu đang thua lỗ.
Mô tả chung
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng,
người ta thường cảm thấy động lực mạnh hơn để tránh những khoản thua lỗ hơn là
đạt được lợi nhuận. Về mặt tâm lý, khả năng thua lỗ trung bình gấp đôi động lực
so với một khoản lợi nhuận tương đương. Nghĩa là, người ta thường yêu cầu tối
thiểu một mức lợi nhuận 2$ khi đặt 1$ vào rủi ro. Hiểu ngược lại có nghĩa là
anh ta sợ rủi ro gấp đôi so với lợi nhuận đạt được.
Khuynh hướng sợ lỗ có thể
ngăn một người khỏi việc loại bỏ (bán) những cổ phiếu không mang đến lợi nhuận,
thậm chí khi họ thấy ít hoặc không có triển vọng để cổ phiếu đó phục hồi từ mức
thua lỗ, kết quả họ thường mất một khoảng thời gian quá lâu để chờ đợi những sự
phục hồi như vậy. Nó ngăn NĐT khỏi việc dứt khoát bán những cổ phiếu không còn
triển vọng để sớm phân bổ lại vốn. Tương tự, tâm lý sợ thua lỗ có thể khiến NĐT
sa lầy vào việc tránh rủi ro quá mức khi đánh giá tiềm năng của một cổ phiếu, bởi
vì việc tránh né mất mát là ưu tiên cấp bách hơn so với tìm kiếm lợi nhuận. Khi
cổ phiếu bắt đầu tăng và tạo ra lợi nhuận, những NĐT mắc khuynh hướng này có xu
hướng chốt lời sớm, họ lo sợ rằng nếu không thì TT sẽ đảo ngược và phá tan lợi
nhuận. Vấn đề ở đây là việc chốt lời sớm để bảo vệ lợi nhuận làm hạn chế tiềm
năng tăng trưởng. Tóm lại, khuynh hướng sợ thua lỗ khiến NĐT nắm giữ những cổ
phiếu đang thua lỗ và bán những cổ phiếu đang tăng giá, trong khi những cổ phiếu
đang tăng giá thông thường là những cổ
phiếu tốt và sẽ giúp hiệu quả danh mục được tối ưu.
Điều này có thể dễ dàng
thấy được, khi thị trường bắt đầu rủi ro, hoặc khi phải đứng trước lựa chọn phải
bán bớt cổ phiếu nào đó, NĐT thường có xu hướng bán những mã cổ phiếu đang có lời
trước, và giữ lại những cổ phiếu đang thua lỗ với kỳ vọng những cổ phiếu đó sẽ
phục hồi. Đến đây thì chúng ta đủ thấy rõ sự nguy hại của loại sai lầm này. Rõ
ràng, những cồ phiếu tăng giá thông thường là những cổ phiếu tốt và có thể tiếp
tục xu hướng tăng, trong khi những cổ phiếu đang giảm giá có thể đang gặp vấn đề
về kinh doanh và có thể tiếp tục đi xuống, tình huống này chẳng khác nào một đội
bóng cố gắng tồn tại bằng cách “bán những cầu thủ tốt để kiếm tiền nuôi những
cầu thủ tồi”. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng rất nhiều cổ phiếu thua lỗ mà
doanh nghiệp của nó không cho thấy triển vọng phục hồi, và việc tiếp tục nắm giữ
cổ phiếu của những doanh nghiệp như vậy thực sự làm gia tăng rủi ro cho danh mục
của NĐT.
Vô hình chung, khi tiếp tục
nắm giữ những cổ phiếu đang thua lỗ, thông thường NĐT đang làm gia tăng rủi ro
trong danh mục của mình. Ngược lại, việc bán sớm những cổ phiếu đang chuyển biến
tích cực, mà triển vọng về doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp có thể tiếp
tục tăng trưởng, đã làm giảm tiềm năng lợi nhuận mà NĐT có thể đạt được. Cả hai
hành động này, rõ ràng là đi ngược với mục đích tối ưu hóa hiệu quả danh mục của
NĐT.
Nguy hiểm hơn, một vài
NĐT có quan niệm rằng, khi họ chưa bán những mã cổ phiếu đang thua lỗ, thì họ vẫn
chưa thực sự lỗ, nó chỉ là “những khoản lỗ trên giấy”. Vâng, điều này đúng ở
nghĩa nào đó! Tuy nhiên, thực tế không thể phủ nhận là bạn đã thua lỗ, vì lúc
này đống giấy mà ban đang sở hữu đang có giá rẻ hơn lúc mà bạn đã mua nó. Và việc
nắm giữ một cách mù quáng không đảm bảo rằng thua lỗ của bạn sẽ được bù đắp sau
này. Tốt hơn hết, là nên hiện thực hóa khoản lỗ vì đến một lúc nào đó, nó sẽ
không “nằm trên giấy” mãi mãi.
Hướng dẫn cho nhà đầu tư
Sợ lỗ là một trong những
khuynh hướng khó tránh khỏi trong các quyết định tài chính/đầu tư. Nó đối nghịch
hoàn toàn với những gì NĐT muốn: làm gia tăng rủi ro trong khi lợi nhuận tiềm
năng thấp hơn. NĐT nên chấp nhận rủi ro để gia tăng lợi nhuận thay vì chỉ theo
đuổi việc giảm thiệt hại. Giữ những cổ phiếu đang lỗ và bán cổ phiếu đang lời sẽ
tàn phá danh mục đầu tư. Bên dưới là 4 sai lầm phổi biến mà người mắc phải
khuynh hướng sợ thua lỗ hay gặp phải:
1. Sợ mất mát sẽ khiến NĐT nắm
giữ những cổ phiếu đang thua lỗ quá lâu. Nó trở thành nỗi phiền muộn khi NĐT nắm
giữ các cổ phiếu thua lỗ với hi vọng là nó sẽ phục hồi lại mức cũ. Hành vi này
gây ra hệ quả tiêu cực là làm giảm lợi nhuận và hiệu quả của danh mục.
2. Sợ mất mát sẽ khiến NĐT bán non những cổ phiếu
đang lời, vì lo sợ rằng lợi nhuận của họ sẽ bị mất nếu họ không bán. Hành vi
này làm giới hạn tiềm năng tăng trưởng lợi nhuận của danh mục, và có thể dẫn đến
việc giao dịch quá nhiều, tác hại của việc giao dịch quá mức đã được chứng minh
trong các chương trước.
3. Sợ thua lỗ khiến NĐT
không nhận thức được rằng họ đang gây nhiều rủi ro hơn cho danh mục của mình,
đơn giản là nếu NĐT chấp nhận bán cổ phiếu tồi và tái phân bổ vào một cổ phiếu
tốt hơn, hoặc đơn giản là chuyển sang tiền mặt là đã có thể giảm thiểu rủi ro.
4. Sợ thua lỗ có thể khiến
các NĐT nắm giữ các danh mục không cân bằng. Ví dụ, khi một doanh nghiệp đột ngột
sụt giảm mạnh giá trị (gian lận sổ sách, báo cáo tài chính có vấn đề,...) việc
sợ thua lỗ sẽ khiến NĐT không dứt khoát bán các cổ phiếu này và gây thiệt hại
cho danh mục về lâu dài.
Lời khuyên cho NĐT
Get – Even – Itis: tự nhận thức rằng nắm giữ các cổ
phiếu thua lỗ quá lâu sẽ gây nguy hại cho danh mục đầu tư. Một triệu chứng có
thể nhận biết Get – Even – Itis là quyết định của NĐT trong một số trường hợp
dường như phụ thuộc vào mức giá ban đầu mà họ mua cổ phiếu đó (thay vì đưa ra
quyết định nắm giữ cổ phiếu hay không dựa trên quá trình định giá cổ phiếu, NĐT
lại dựa trên chính mức giá ban đầu mà họ mua, rõ ràng là rất phi lý trí).
Một biện pháp khắc phục
hiệu quả vấn đề này là đặt ra một ngưỡng cắt lỗ (cutloss).
Ví dụ: nguyên tắc là bạn sẽ bán 1 cổ phiếu ngay tức thì nếu nó sụt
giảm 10%. Tuy nhiên, cần chú ý các mức cắt lỗ nên linh hoạt dựa theo mức độ biến
động thông thường (mức độ dao động đặc
trưng của từng cổ phiếu) hoặc tùy vào từng chiến lược khác nhau. Ở đây không có
nghĩa là linh hoạt một cách vô kỷ luật mà
nguyên tắc cắt lỗ sẽ được bạn xác định rõ
ràng trước
khi mua vào một cổ phiếu và đảm bảo tuân
thủ tuyệt đối các mức cắt lỗ đã định sẵn đó. Ví dụ, nếu là lướt sóng theo theo
tín hiệu PTKT, bạn nên đặt các ngưỡng cắt lỗ ở mức thấpm chẳng hạn tầm 5% hoặc lấy các đường MA ngắn hạn làm điểm cắt lỗ như MA5 hoặc MA20; đối với các khoảng đầu tư nắm giữ với tiềm năng
lợi nhuân lớn hơn 20%, ngưỡng cắt lỗ có thể từ 7-10% đối với các cổ phiếu cơ bản
tốt.
Thu tiền và
chạy (khuynh hướng chốt non cổ phiếu): khuynh hướng sợ lỗ sẽ khiến NĐT chốt non cổ phiếu vì lo sợ rằng lợi nhuận
của họ có thể bốc hơi nếu cổ phiếu đảo chiều. Hành vi này sẽ làm hạn chế tiềm
năng tăng trưởng của danh mục đầu tư và có thể dẫn đến tình trạng trading quá mức.
Tương tự như nguyên tắc cắt lỗ bên trên, chúng ta cũng nên xác định các nguyên
tắc bán/chốt lời 1 cổ phiếu. Nguyên tắc bán/chốt lời nên dựa trên các yếu tố
liên quan đến nền tảng cơ bản của doanh nghiệp và tốt nhất là dựa trên nguyên tắc
định giá.
Điểm này rất đáng lưu ý, vì bản thân tôi đã trải
nghiệm trên thị trường và nhận ra nguyên tắc định giá là nền tảng hàng đầu và là
phương pháp tốt nhất của các mục tiêu giá đối với cổ phiếu, vì nó rõ ràng và
mang tính khoa học. Đừng quên câu nói nổi tiếng của Warrant Buffet “Tôi mua một
doanh nghiệp với giả định sở hữu nó vĩnh viễn”. Bên dưới là các ví dụ về nguyên
tắc bán/chốt lời 1 cổ phiếu:
- + Bán khi cổ phiếu
không còn đáp ứng các tiêu chí ban đầu (ví dụ, tôi mua cổ phiếu ABC vì mẫu hình
XYZ, nếu mẫu hình fail thì bán, hoặc mua cổ phiếu ABC với kỳ vọng lợi nhuận quý
tới đạt 200 tỷ, nếu chỉ đạt 150 tỷ thì bán).
- +
Bán khi nền tảng
cơ bản của DN bị suy yếu.
- + Bán khi thị trường
chung có bất ổn, biến đông vĩ mô, chính trị gây rủi ro hệ thống đối với danh mục.
- + Bán khi cổ phiếu
đạt hoặc vượt giá mục tiêu ban đầu.
Để rõ ràng hơn, tôi ví dụ về nguyên tắc chốt lời của
các trường phái khác nhau về cổ phiếu HBC như sau:
- +
Đối với những người
lướt sóng, đầu cơ ngắn hạn, hoặc theo tín hiệu kỹ thuật, họ sẽ đặt các mục tiêu
lợi nhuận là 20-25% sẽ chốt lời. Hoặc dùng nguyên tắc đo độ dài sóng trước, để
xác định giá mục tiêu của HBC trong nhịp sóng tiếp theo.
-
+ Đối với trường
phái trending theo xu hướng/ichimoku họ sẽ nắm giữ HBC cho đến khi nào xu hướng
tăng của nó bị vi phạm và cho thấy dấu hiệu suy yếu rõ ràng dựa trên các tín hiệu
giao cắt của công cụ này.
- + Đối với những NĐT
giá trị, họ sẽ tiếp tục nắm giữ và dựa vào các dữ liêu, thông số tình hình hoạt
động kinh doanh/tài chính của DN để định giá lại và xác định mức giá mục tiêu. Ví
dụ, ban đầu NĐT định giá HBC tầm giá 35, nhưng BCTC mới nhất của DN cho thấy
doanh thu và lợi nhuận của HBC tăng mạnh và triển vọng tăng trưởng tiếp tục duy
trì tốt vài năm tới. Do đó, nếu chỉ chốt lời theo phương pháp cảm tính thông
thường (ví dụ 20-25% là đủ rồi) thì khả năng sẽ hụt mất lợi nhuận tiềm tàng
trong tương lai, ví dụ những người mua HBC giá 28 có thể bán nó ở vùng giá 34,
sau đó đã bỏ lỡ tiềm năng tăng giá mạnh của cổ phiếu này từ 34 lên 56. Trong
tình huống này, bằng phương pháp tái đinh giá dựa trên các thông số mới sẽ giúp
NĐT đánh giá khách quan, khoa học về giá trị hợp lý của một cổ phiếu.
Qua ví dụ trên có thể thấy, phương pháp định giá dựa
trên giá tri và nền tảng cơ bản của doanh nghiệp là một trong những cách thức
khoa học và hiệu quả nhất để xác đinh giá mục tiêu/chốt lời của một cổ phiếu.
Sa lầy vào rủi
ro quá mức: Khuynh hướng sợ mất mát có
thể khiến NĐT nắm giữ một cổ phiếu thua lỗ trong khi DN của nó đang gặp phải những
vấn đề trầm trọng về mặt hoạt động kinh doanh và tài chính. Sẽ hữu ích nếu nhà
tư vấn giải thích cho khách hàng một cách tường tận về những rủi ro liên quan đến
DN đó, mức đánh giá tín nhiệm, tỷ lệ mua/bán/nắm giữ,… Sau đó, hi vọng khách
hàng sẽ đưa ra quyết đinh đúng để bảo toàn danh mục khỏi những rủi ro và những
cổ phiếu kém chất lượng.
Danh mục mất
cân đối: Khuynh hướng sợ thua lỗ có
thể khiến NĐT nắm giữ một danh mục mất cân đối. Truyền đạt cho khách hàng tầm
quan trọng của các nguyên tắc phân bổ tài sản và đa dạng hóa. Tuy nhiên, có
thể phương pháp này sẽ không hiệu quả nếu khách hàng đang nắm giữ một danh mục
cô đặc với nhiều cảm xúc đi kèm. Trong trường hợp này, hãy hỏi khách hàng câu hỏi
hữu ích như sau: “Nếu anh/chị không sở hữu bất kỳ cổ phiếu KSA nào hôm nay, thì
anh/chị còn muốn nắm giữ nó số lượng nhiều như lúc này hay không?”. Nếu câu trả
lời là “Không”, thì lúc đó tập trung vào diễn giải các lợi ích của việc bán bớt
cổ phiếu đang thua lỗ đó đi, ví dụ như hiện thực hóa khoản lỗ vì mục tiêu hoàn
thuế (cái này có tác dụng ở Mỹ, còn cơ chế thuế TNCK ở VN đánh trên giá trị từng
lần giao dịch nên không phân biệt lời/lỗ, do đó không có cơ chế hoàn thuế cho
NĐT trong trường hợp thua lỗ).
VIET EURO
Biên soạn từ “Behavioral Finance and Wealth Management”. Micheal M.Pompian.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét