27/7/15

NGÀNH XI MĂNG: NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT

      Giai đoạn 2015 – 2020 là giai đoạn bản lề của nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Nhiều hiệp định đối tác song phương và đa phương đã và đang được ký kết. Giao thương giữa các nước trong cộng đồng kinh tế Asean (AEC) ngày càng mở rộng, nhiều cơ chế được dỡ bỏ. Năm 2015, nền kinh tế Việt Nam cho thấy nhiều dấu hiệu phục hồi, các ngành sản xuất dần hồi phục trở lại. Trong bối cảnh đó, để thúc đẩy làn sóng đầu tư vào Việt Nam, nhiều dự án trọng điểm quốc gia liên tục được khởi công. Đặc biệt là các dự án cơ sở hạ tầng lớn, kéo theo đó là sự phát triển của cơ sở hạ tầng vệ tinh xung quanh các dự án trọng điểm tại các thành phố lớn. Đây thực sự là thời cơ để tìm kiếm cơ hội đầu tư vào các cổ phiếu thuộc nhóm ngành vật liệu xây dựng.  

      Bài viết này trình bày về các yếu tố tác động và cơ cấu chi phí đầu vào của ngành Xi Măng (nhóm ngành VLXD) nhằm giúp NĐT có cái nhìn rõ nét hơn, hỗ trợ cho việc phân tích các doanh nghiệp ngành xi măng.
      Nhu cầu tiêu thụ xi măng trong 5 năm gần đây liên tục tăng cao, thậm chí trong giai đoạn kinh tế đình trệ, thị trường BĐS đóng băng, doanh số của các doanh nghiệp xi măng vẫn duy trì mức tăng trưởng ổn. Tuy nhiên, từ giai đoạn 2011-2014 mặc dù doanh số liên tục tăng nhưng lợi nhuận của các công ty trong ngành lại ở mức tương đối thấp. Trong đó, yếu tố tác động chủ yếu, ăn mòn lợi nhuận của ngành là chi phí đầu vào của ngành luôn ở mức cao. Do đó, việc đào sâu phân tích các yếu tố cấu thành và tác động đến giá vốn đầu vào của ngành xi măng sẽ giúp chúng ta có cái nhìn rõ nét hơn, từ đó có thể phân tích được triển vọng về lợi nhuận của ngành xi măng trong các năm tới.
Những yếu tố chính đóng góp vào giá thành của xi măng:
1/ Chi phí năng lượng – điện, xăng dầu: chiếm khoảng 30%
2/ Chi phí nguyên vật liệu thô: chủ yếu là đá vôi, chiếm từ 30-40%
3/ Chi phí vận chuyển: khoảng 10%
4/ Các chi phí khác: từ 15-20%


Năng lượng – điện, xăng dầu: ngành xi măng phụ thuộc vào năng lượng. Chi phí điện, nước, xăng dầu chiếm khoảng 30% giá vốn sản xuất xi măng. Do đó, giá điện và xăng dầu tác động mạnh đến chi phí hoạt động của các công ty xi măng. Than đá cũng được sử dụng trong các lò nung.
Nguyên vật liệu thô: chiếm khoảng 30-40% chi phí đầu vào. Trong đó thành phần chính là đá vôi, chiếm khoảng 70-75% và các nguyên vật liệu khác. Các nhà máy xi măng thường được đặt cạnh mỏ đá vôi khó vận chuyển trên đoạn đường dài.
Chi phí vận chuyển: vì các nhà máy xi măng thường đặt cạnh các mỏ đá vôi nên việc vận chuyển đến thị trường tiêu thụ cũng tốn một khoảng chi phí đáng kể, chiếm hơn 10% chi phí của giá thành xi măng.
Các chi phí khác: như chi phí bán hàng, nhân công, quản lí,... chiếm từ 15 – 20% giá thành xi măng.
Nhu cầu tiêu thụ ngành xi măng phụ thuộc chủ yếu vào các phân khúc thị trường sau:
1/ Nhà ở: chiếm khoảng 60-65%
2/ Cơ sở hạ tầng: 20-25%
3/ Xây dựng thương mại: 10-15%
4/ Công nghiệp: chiếm 5-10%


Nhà ở: là phân khúc chính trong việc tiêu thụ xi măng nội địa: thường đóng góp khoảng 60-65%.
Cơ sở hạ tầng: thường chiếm từ 20 đến 25% nhu cầu tiêu thụ xi măng.Có thể tăng cao và thể hiện rõ nét ở những nền kinh tế mới nổi. Chính phủ đầu tư mạnh vào các dự án cơ sở hạ tầng.
Xây dựng thương mại: Cao ốc, văn phòng cho thuê, bệnh viện, trường học chiếm khoảng 10-15%.
Công nghiệp: chiếm tỷ trọng thấp nhất từ 5-10%.

Bên cạnh đó, cần chú ý cơ cấu tài sản của các công ty ngành xi măng có tỷ lệ nợ vay khá cao. Và các công ty lớn trong ngành thường bị tác động bởi sự biến động của đồng Euro khá lớn. Do đó, biến động tỷ giá hoái đối có thể dẫn đến các khoản lãi (lỗ) tỷ đáng kể trong hoạt động của các công ty xi măng.